1.Tỉnh Ninh Bình không chỉ là đất phát tích của các vị Hoàng đế nhà Trần, trải qua các giai đoạn lịch sử, với vị trí địa lý của vùng đồng bằng ven biển, vùng đất này còn trở thành nơi hội tụ, lan tỏa nhiều loại hình tín ngưỡng dân gian, trong đó phải kể đến tín ngưỡng phụng thờ Đức thánh Triệu Việt Vương, một tín ngưỡng khá phổ biến ở các địa phương trên địa bàn tỉnh.
Thân thế, sự nghiệp của Đức thánh Triệu Việt Vương trong tiến trình lịch sử dân tộc đã được ghi chép đầy đủ và khá thống nhất, thông qua nội dung các bản thần tích, hệ thống văn bia, câu đối, đại tự đang lưu giữ tại các di tích ở trong và ngoài tỉnh. Một điều đặc biệt, nội dung các nguồn tư liệu trên đều thống nhất và khẳng định, địa danh Độc Bộ (xã Yên Cường, tỉnh Ninh Bình) là nơi Triệu Việt Vương tuẫn tiết. Vì thế, tín ngưỡng thờ phụng Đức thánh Triệu Việt Vương tại các di tích trên địa bàn tỉnh còn mang một ý nghĩa thiêng liêng, là nơi ghi dấu sự tích hiển linh, hóa thánh. Trải qua các triều đại phong kiến di tích và địa danh Độc Bộ từ lâu đã được các nhà sử học, học giả nghiên cứu và nhân dân trong khu vực suy tôn bằng duệ hiệu tôn kính là “chính miếu”.
Theo thống kê sơ bộ, hiện nay trên địa bàn tỉnh có hàng trăm di tích phụng thờ Đức thánh Triệu Việt Vương. Với số lượng di tích khá phong phú đã minh chứng và khẳng định những mối liên hệ, đóng góp của Đức thánh Triệu Việt Vương đối với lịch sử dân tộc nói chung và mảnh đất tỉnh Ninh Bình nói riêng.
Kiến giải về các di tích thờ phụng Đức thánh Triệu Việt Vương trong đời sống tín ngưỡng nhân dân các địa phương thuộc tỉnh Ninh Bình, G.S. Phan Đại Doãn trong bài viết “Mấy nét về công cuộc khai hoang thành lập hai tổng Hoành Thu, Ninh Nhất (Hà Nam Ninh)” đã khảo cứu tấm bia “Phúc thần bi minh” lưu giữ tại di tích đền Tự Lạc (xã Thọ Nghiệp, huyện Xuân Trường, nay là xã Xuân Hưng, tỉnh Ninh Bình) cung cấp cho chúng ta biết một thông tin quý giá: “Vua (Tự Đức) ra chiếu chỉ cho các xã dọc duyên hải tôn thờ thần hiệu Triệu Thánh Vương (tức Triệu Quang Phục) để cầu xin sự phò giúp. Các xã đều kính cẩn vâng theo” .
Như vậy, với việc nhà vua ban chiếu chỉ cho các xã trong khu vực dọc duyên hải tôn thờ Đức thánh Triệu Việt Vương để cầu xin sự phò giúp nên nhân dân các vùng đất mới khai khẩn đã tìm về nơi “chính miếu” xin rước chân nhang, thần hiệu của ngài về thờ phụng, cầu đảo mọi việc đều tốt lành, linh nghiệm. Về sau các triều đại phong kiến còn ban tặng sắc phong chuẩn cho sự thờ phụng. Từ đó, tín ngưỡng thờ Đức thánh Triệu Việt Vương mới có điều kiện lan tỏa ra hầu khắp các địa phương và một số vùng lân cận trong khu vực, tạo thành một hệ thống tín ngưỡng khá phổ biến như ngày nay.
2. Hàng năm vào dịp trung tuần tháng Tám (âm lịch), tại các di tích phụng thờ Đức thánh Triệu Việt Vương trên địa bàn tỉnh, chính quyền và nhân dân địa phương long trọng cử hành lễ hội để tưởng niệm ngày hoàng đế Triệu Việt Vương hiển linh, hóa thánh. Trong số các lễ hội gắn với tín ngưỡng phụng thờ đó phải kể đến Lễ hội truyền thống đền Độc Bộ, xã Yên Cường từ lâu đã nổi tiếng trong khu vực đồng bằng Bắc bộ và là một trong nhiều lễ hội mùa thu tiêu biểu của tỉnh.
Với ý nghĩa là “chính miếu” nên các địa phương có di tích phụng thờ Đức thánh Triệu Việt Vương vào dịp lễ hội truyền thống đều tề tựu tại đền Độc Bộ để làm lễ cáo yết. Thời gian tổ chức lễ hội diễn ra từ ngày 12-15 tháng Tám (âm lịch) với các nghi lễ truyền thống, trong đó có nghi lễ “Tế Tam kỳ giang” rất độc đáo thu hút đông đảo nhân dân, du khách tham gia.
“Tế Tam kỳ giang” là nghi thức tế trời đất, cảm tạ công ơn Đức thánh Triệu Việt Vương, người đã có công dựng nước, tạo lập cuộc sống cho nhân dân. Đây là một nghi thức quan trọng trong lễ hội, nên theo lệ xưa, các làng Độc Bộ, Phạm Xá, Dương Phạm, Đoài Thôn và nhiều di tích khác trong tỉnh lần lượt rước kiệu lên thuyền làm lễ. Giữ vai trò chủ tế bao giờ cũng là người dân làng Độc Bộ.
Buổi sáng ngày 13 tháng Tám (âm lịch), các làng tổ chức kiệu rước, dâng lễ trước sân đền Độc Bộ. Sau khi các đoàn rước vào đền làm lễ xong, đúng giờ chính Ngọ (12 giờ trưa), nghi thức “Tế tam kỳ giang” diễn ra giữa ngã ba sông Đào và sông Đáy bắt đầu. Các làng rước kiệu bát cống, cùng các loại cờ, bát biểu, chấp kích lên những chiếc thuyền lớn tiến ra giữa ngã ba sông (cách đền Độc Bộ khoảng 150-200m) để làm lễ. Vị trí cử hành nghi lễ là điểm hợp lưu của dòng sông Đáy, sông Đào. Nghi thức tế này gồm hai "tuần lễ" (khoá lễ). “Tuần lễ" thứ nhất để tế trời đất cầu cho mưa thuận, gió hòa, sóng yên bể lặng, mùa màng bội thu… “Tuần lễ” thứ hai tế thánh với nghi thức các đội tế đọc chúc văn, rước nước về đền Độc Bộ.
Theo các nhà nghiên cứu, "Tế tam kỳ giang" là nghi thức tế, lễ độc đáo tiêu biểu nhất vùng đồng bằng Bắc Bộ, được tổ chức giữa ngã ba sông với nhiều phần tế, lễ mang tính đặc trưng, cầu mùa tiêu biểu cho cư dân vùng đồng bằng trồng lúa nước.
Lễ hội đền Độc Bộ ngày nay không còn mang tính chất lễ hội của làng mà đã trở thành lễ hội vùng, trong đó lễ "Tế tam kỳ giang" ngày càng được nhân dân, chính quyền địa phương chuẩn bị công phu nên đã trở thành hoạt động văn hóa tâm linh hấp dẫn, thu hút sự tham gia của đông đảo du khách trong và ngoài tỉnh.
Vũ Hồng Phong